Lao động muốn tìm công việc thoải mái thời gian, địa điểm, sẵn sàng nghỉ để gia nhập lực lượng freelancer khiến thị trường lâm cảnh người thất nghiệp nhiều nhưng doanh nghiệp khó tuyển.
希望拥有弹性时间、舒适工作场所、灵活休假的劳动者加入自由职业者队伍,使市场处于失业人员众多但企业难以招聘的境地。
Chị Thùy Dương, 36 tuổi, vốn là trưởng nhóm trong công ty truyền thông ở quận 3, đã nghỉ việc hồi đầu năm vì muốn dành thời gian cho con trai 4 tuổi. Trước đây hợp đồng lao động ghi thời gian làm việc 8 tiếng mỗi ngày, tuần làm 5 ngày nhưng chưa bao giờ chị Dương rời văn phòng trước 20h dù công việc bắt đầu từ 8h. Về nhà, chị tiếp tục ôm máy tính xử lý các phản hồi của đối tác, cuối tuần cũng không thoát khỏi việc. Chuyện nhà, chăm sóc con chị phó mặc cho chồng.
36岁的垂杨原来是胡志明市第3郡的一家传媒公司的团队负责人。今年年初,因为想有更多的时间陪伴4岁的儿子,所以她辞去了工作。此前,劳动合同规定,工作时间为每周工作5天,每天工作8小时,即使从早上8点开始工作,垂杨也从未在晚上8点之前离开办公室。回到家后,她继续抱着电脑处理同事的反馈,周末她也无法避免工作。家务和照顾孩子都留给了丈夫。
"Một lần chồng đi công tác, tôi phải chăm con và gần như chẳng biết đồ dùng của con để ở đâu cả", chị Dương nói. Người mẹ trẻ nhận ra cuộc sống của mình không có gì ngoài công việc và luôn trong trạng thái mệt mỏi, áp lực. Chị quyết định nghỉ làm.
垂杨:“有一次我丈夫出差,我必须照顾我的孩子,几乎不知道他的东西放在哪里。”这位年轻的母亲意识到她的生活只有工作,总是处于疲劳和压力的状态。她决定辞掉工作。
(员工在胡志明市就业服务中心办理领取失业救济金的手续。摄影:Thanh Tùng)
Hai tháng trước, chị Dương đăng ký nhận trợ cấp thất nghiệp, cùng lúc tìm kiếm công việc bán thời gian và dự định sẽ theo đuổi con đường làm freelancer chuyên nghiệp để có thời gian chăm sóc gia đình.
两个月前,垂杨一边申请失业救济金,一边找一份兼职工作,并计划走上职业自由职业者的道路,以便有时间照顾家人。
Chị Dương là một trong những lao động muốn hài hòa cuộc sống gia đình và công việc, khi không tìm được điểm cân bằng đã lựa chọn rời bỏ, xu hướng này bùng nổ khi Covid-19 xuất hiện và kéo dài đến nay.
垂杨是想要协调家庭和工作的工人之一,当她找不到平衡时,她选择了离开。这种趋势从越南新冠疫情爆发时一直持续到现在。
Khảo sát Người Việt chuộng hình thức làm việc nào của ManpowerGroup vào năm 2019 cho kết quả 87% ứng viên được hỏi mong muốn công việc không phải toàn thời gian, gần như gấp đôi so với tỷ lệ 45% trên toàn cầu. Trong số đó, thứ tự ưu tiên lựa chọn của lao động là làm việc tự do (36,5%), dự án (32,1%), bán thời gian (23,7%), hợp đồng (6,9%) và 0,8% chọn các hình thức khác. Đây đều là các mô hình việc làm mang đến cho lao động sự linh động, tự do, tự chủ hơn.
万宝盛华集团在2019年对越南人喜欢什么样的工作的调查显示,87%的受访者希望从事非全职工作,几乎是全球45%的两倍。其中,劳动者优先选择的顺序是自由职业者(36.5%)、项目(32.1%)、兼职(23.7%)、合同工(6.9%),0.8%选择其他形式。这些都是为工人提供更多灵活性、自由和自主权的就业模式。
Tương tự, báo cáo 10 năm nhìn lại Xu hướng nhân tài Việt Nam (2013-2023) của Anphabe cũng chỉ ra rằng làm việc linh hoạt là tiêu chuẩn mới xuất hiện nhưng có đến 47% lao động ưu tiên khi lựa chọn nơi làm việc lý tưởng. Tiêu chuẩn này đứng thứ hai chỉ sau thưởng nóng, thưởng một lần khi nhân viên đạt thành tích nổi bật.
同样,Anphabe关于2013-2023年越南人才趋势的十年回顾报告也指出,灵活工作是新出现的标准,但在选择理想工作时,高达47%的工人优先考虑。这一标准仅次于完成项目后立马得到奖金和业绩奖金。
Khảo sát qua các năm của Anphabe cũng ghi nhận xu hướng lực lượng tham gia vào nền kinh tế Gig (nền kinh tế tự do) ngày càng tăng. Nếu năm 2020, tỷ lệ này là 39% thì đến năm 2021 đã tăng lên 44%. Dù khi được hỏi lao động vẫn ưu tiên sự ổn định nguồn nhân lực tham gia vào nền kinh tế tự do vẫn tăng lên vào năm 2023 khi tỷ lệ này chiếm 57% nguồn nhân lực trí thức tại Việt Nam.
Anphabe多年来的调查指出,参与零工经济(自由经济)的参与率呈增长趋势。如果在 2020 年,这一比例为 39%,到 2021 年已增加到 44%。尽管劳动力仍然优先考虑稳定,但到2023年,自由经济中的人力资源参与率仍将增加,届时这一比例将占越南智力人力资源的57%。
Theo bà Thanh Nguyễn, CEO Anphabe, điều này cho thấy một sự chuyển dịch lớn trong quan niệm của người lao động về sự ổn định trong công việc. Cái gọi là "ổn định" giờ đây không chỉ là gắn bó lâu dài với một nơi làm mà còn khả năng duy trì sự vững vàng, thích nghi với biến động, thông qua tham gia nhiều loại công việc và hoạt động tạo giá trị khác nhau, có nhiều nguồn thu nhập đa dạng.
AnphabeCEO清阮女士指出,这表明员工对工作稳定性的概念发生了重大转变。所谓“稳定”,现在不仅是对职场的长期依恋,更是通过参与多种不同类型的工作和创造价值的活动,保持稳定、适应波动的能力,拥有多种多样的收入来源。
Thùy Dương là một trong hơn 75.000 người nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp trong 6 tháng đầu năm ở TP HCM. Cô cũng nằm trong số lao động từ chối công việc toàn thời gian được Trung tâm Dịch vụ việc làm thành phố giới thiệu. Ngay thời điểm cô nộp hồ sơ, trung tâm có 49.000 vị trí cần người thuộc 27 ngành nghề, trong đó có một số công việc tương tự chuyên môn nhưng Dương đều từ chối.
垂杨是胡志明市今年前6个月申请失业救济金的75,000多人之一。她也是拒绝市就业服务中心推荐的全职工作的工人之一。在她提交申请时,该中心有27个行业的49,000个职位需要人员,其中包括一些类似于她专业的工作,但垂杨拒绝了。
Bà Nguyễn Văn Hạnh Thục, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm TP HCM, nói khi nhân viên trung tâm tư vấn đa phần nhận lại câu hỏi ngược "có việc bán thời gian hay tự do không". Từ đầu năm đến nay số người tìm việc toàn thời gian chỉ bằng một nửa nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp, chưa kể khi kết nối tỷ lệ nhận việc không cao. Cụ thể, 6 tháng đầu năm trung tâm tư vấn việc làm cho hơn 112.000 lượt người thất nghiệp nhưng chỉ gần 2.500 người nhận việc
胡志明市就业服务中心主任阮文行实女士说,咨询中心的工作人员大多收到相反的反馈,“是否有兼职或自由职业”。从年初开始,全职求职者的数量仅占企业招聘需求的一半,更别说对接时求职接受率也不高。具体来说,今年前6个月,就业咨询中心提供了超过11.2万名失业人员,但只有近2500人获得了工作。
Bà Thục cho rằng xu hướng tìm kiếm công việc tự do, thoải mái diễn ra mạnh mẽ ở lao động thuộc thế hệ Z (những người sinh ra từ năm 1997 đến 2012) và Y (1981 đến 1996), đây là hai nhóm chủ lực của thị trường lao động. Nếu Gen Z thích công việc tự do, thoải mái vì đặc điểm thế hệ thì lý do của Gen Y là hoàn cảnh. Đơn cử, giai đoạn này họ cần nhiều thời gian cho gia đình, có ít nhiều tích lũy tài sản, kinh nghiệm, mối quan hệ xã hội để từ chối những việc không được như mong muốn.
行实女士说,在Z世代(1997年至2012年出生的人)和Y世代(1981年至1996年出生的人)的工人中,寻找自由职业者和舒适工作的趋势很强烈,这是劳动力市场的两个主要群体。如果说Z世代喜欢自由、舒适的工作是因为这一代人的特点,那么Y世代的原因就是形势。比如,在这个阶段,他们需要大量的时间陪伴家人,或多或少积累资产、经验和社会关系,有能力拒绝那些不如意的事情。
Xu hướng này khiến những ngành nghề cần sự hiện diện của nhân sự ở công sở, tương tác trực tiếp khó kiếm được người, như sản xuất công nghiệp, y tế, giáo dục, bán hàng...
这种趋势使得招聘愿意线下工作的员工变得很困难,例如工业生产、医疗保健、教育、销售等。